Đến các nhà tư tưởng thời cổ đại, ví dụ như trong lý thuyết thiên, địa
nhân đã khẳng định, trời đất biến đổi khôn lường nhưng cũng không phức
tạp bằng sự biến đổi trong tâm lý người. Được lòng người là được tất
cả, thu phục được lòng người sẽ chiến thắng. (Thiên thời không bằng
địa lợi, địa lợi không bằng nhân hoà.)
Cho đến khi môn Khoa học quản lý ra đời và trở thành một môn khoa học
độc lập, người ta thấy rằng cũng có rất nhiều yếu tố tham gia vào hệ
thống quản lý như vật chất, kinh tế, văn hoá, thông tin… nhưng yếu tố
con người vẫn là một yếu tố quan trọng nhất của ngành khoa học này.
Ngày nay, trong nền kinh tế tri thức, khi mà trong giá trị sản phẩm
hơn 80% là hàm lượng chất xám, tài sản trí tuệ điều hành tài sản của
các công ty thì yếu tố con người càng được đặt vào một vị trí quan
trọng. Hãy tưởng tượng, trong hầu hết các ngành nghề, người ta dễ dàng
đặt mùa các loại máy móc thiết bị như mua tận gốc của một công ty lớn.
Chất lượng của các trang thiết bị cũng hoàn toàn giống nhau kể cả tính
năng cũng như công dụng của chúng. Giả sử một công ty vừa mất tất cả
các máy móc thiết bị nhưng kỹ năng sản xuất vẫn còn nguyên thì họ có
thể nhanh chóng phục hồi tái tạo lại nhà xưởng. Nhưng nguợc lại, một
công ty mất kỹ năng tay nghề, mất người quản lý thì dù có giữ được
trang thiết bị cũng không thể đứng vững trên thương trường.
Tóm lại, muốn tồn tại và phát triển, không thể không nghiên cứu yếu tố
con người. Đặc biệt trong lĩnh vực quản lý, con người lại càng trở nên
nhân tố trung tâm không thể thiếu. Trong khuôn khổ nhỏ hẹp của tiểu
luận này, chúng tôi chỉ đề cập đến cách nhìn nhận con người trong hệ
thống tổ chức quản lý, quản lý con người là gì, quản lý như thế nào và
để quản lý con người những người quản lý (lãnh đạo) phải cần có những
gì.
A. Con người
trong hệ thống quản lý.
Như chúng ta biết, việc quản lý con người, tập thể là nhiệm vụ chính
của việc quản lý không chỉ đối với toàn xã hội và đối với từng cấp,
ngành, xã hội. Có thể nói, con người có vai trò chủ đạo trong hệ thống
quản lý. Trong lĩnh vực quản lý người ta xém xét con người và hoạt
động của con người trên 3 góc độ.
· Con người với tư cách là chủ thể quản lý: cùng với năng lực, uy tín,
nhân cách của mình giúp co người đưa ra các quyết định quản lý của
mình. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của tổ chức
và sự phát triển của tổ chức.
· Con người với tư cách là khách thể quản lý (hay đối tượng quản lý):
Đó là những người dưới quyền ở nhiều cấp độ cá nhân, tập thể… với
những đặc điểm văn hoá, nhân cách riêng của họ.
· Thứ 3 nhìn nhận con người trong mối quan hệ giữa chủ thể và khách
thể quản lý (mối quan hệ giữa những người lãnh đạo và người dưới quyền)
Tuy nhiên, con người và tập thể không thụ động trước tác động quản lý
bởi mỗi người đều có ý chí, ý thức, có những lợi ích và nhu cầu riêng,
có nhận thức về các sự kiện. Trong hệ thống quản lý, con người có thể
tiếp nhận các quyết định quản lý, tuân theo nó hoặc có thể không tiếp
nhận hay chỉ tiếp nhận ở một mức độ nhất định. Chính vì thế trong việc
quản lý con người không thể theo các quyết định cứng nhắc mà mang tính
linh hoạt, mềm dẻo.
B. Quản lý
con người là gì, quản lý như thế nào?
Con người là tổng hoà các quan hệ xã hội, con người sống trong xã hội
và không thể tách rời xã hội do đó quản lý con người không thể tách
rời xã hội. Có thể nói
“Quản lý con người một cách có khoa học là phải thiết lập được sự hài
hoà, tối ưu giữa những lợi ích, nguyện vọng và sự phát triển của cá
nhân, tập thể cũng như phải điều hoà được những yêu cầu của cá nhân,
tập thể và xã hội với nhau”.
Quản lý con người là một công việc khó khăn phức tạp không phải ai
cũng có thể làm được. Với quan niệm về bản chất quản lý con người như
trên, chúng ta có thể luận giải nó quan các mặt cụ thể sau:
· Quản lý con người trước tiên là phải xác định được vị trí đúng đắn
của mỗi người trong tập thể, trong hệ thống xã hội, quy định rõ chức
năng, quyền hạn và vai trò xã hội của họ.
· Quản lý con người có nghĩa là đào tạo, bồi dưỡng con người; hướng
dẫn, giúp đỡ họ thực hiện vai trò xã hội, những chức năng, nghĩa vụ và
quyền hạn của họ với tư cách là một chủ thể hoạt động ở vị trí của họ
trong hệ thống tổ chức. ở đây, vai trò của công tác giáo dục, đào tạo
có ý nghĩa vô cùng quan trọng được các nước đưa lên quốc sách hàng đầu.
· Quản lý con người còn có ý nghĩa là tạo ra cho mọi cá nhân (trước
hết là trong công việc và trong sinh hoạt) những điều kiện thuận lợi
nhất để họ thực hiện tốt nhất vai trò xã hội của mình; gắn lợi ích của
mỗi cá nhân với lợi ích của tập thể, dân tộc.
Như vậy, muốn tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi cá nhân trong tổ chức
thực hiện vai trò xã hội của mình, người lãnh đạo cần giúp họ thích
nghi, hoà hợp với nhau, với tập thể nhằm tạo cho cá nhân vừa có tính
độc lập, sáng tạo, vừa có mối quan hệ gắn bó hữu cơ giữa họ và các
thành viên khác. Thực tế cho thấy, có một số yếu tố của sự thích ứng,
hoà nhập sau:
· Sự thích ứng về mặt thể chất, sinh lý, về những điều kiện của hoạt
động: trình độ chuyên môn, kỹ thuật, mức độ căng thẳng, thời gian làm
việc…
· Sự thích ứng với nhau về mặt tâm lý, khí chất, tính cách, xu hướng,
định hướng giá trị, hứng thú, quan niệm, thói quen… nhằm tạo ra không
khí tâm lý tốt trong tập thể.
· Sự thích nghi về mặt xã hội – tâm lý, sự thích nghi giữa cá nhân và
tập thể, đồng nghiệp với lãnh đạo… giúp cho mọi người có nhận thức và
chấp nhận tự giác các quy tắc, các giá trị, tiêu chuẩn hành vi đã được
quy định bởi tập thể xã hội.
Quản lý con người còn có nghĩa là thường xuyên kiểm tra xem mỗi con
người có thực hiện đúng vai trò xã hội của mình hay không.
Muốn làm được điều đó cần thường xuyên tác động, uốn nắn và đánh giá
đúng về kết quả hoạt động của con người (phải hiểu rõ các nét tâm lý
chung của những người bị lãnh đạo để có những cách thức cư xử hợp lý.)
c. Để quản
lý con người, nhà quản lý cần gì?
1. Một trong
những yêu cầu đầu tiên đề ra cho người lãnh đạo đã được Onosandro
Vizantiez Mavriky (thế kỷ 11) trình bày gồm:
· Người ta muốn thấy người lãnh đạo nghĩa cả và công bằng, có kinh
nghiệm trong công việc của mình, thông minh và quyết đoán. Đối với mọi
việc anh ta đều có thái độ bình tĩnh và tựu tin, bình dị và biết kiềm
chế trong cư sử, không quá bận tâm về bản thân và những nhu cầu của
mình. Lường tránh tính tham lam và vụ lợi vì người vụ lợi thì người
tốt không yêu mến mà kẻ thù thì coi khinh.
· Người lãnh đạo phải tôn trọng các quyền của thuộc cấp, ít ngủ và
thường đêm nghĩ xem trong tương lai phải làm gì.
· Sau khi đã quyết định phải hành động mau lẹ, bởi lẽ dịp may hiếm đến
phải kịp thời chớp thời cơ. Không phởn chí khi thành công và không ngã
lòng khi thất bại.
· Biết tiên đoán là một trong những phẩm chất giá trị nhất.
· Phải biết xác định chính xác có thể giao cho ai làm việc gì. Nên
tránh xa những kẻ láu cá hơn là những người dữ tính.
2. F.Tailor, người được coi là cha đẻ của khoa học tổ chức và quản lý
hiện đại cho rằng một người quản lý giỏi cần có những tố chất sau:
trí
thông minh, có học vấn, có kinh nghiệm, khôn khéo, linh hoạt, có nghị
lực sáng suốt, trung thực, suy nghĩ lành mạnh, có sức khoẻ.
3. Theo B.Karlof trong “Chiến lược làm ăn” năm 1991 có đưa ra:
“Một người
lãnh đạo giỏi là người vững tin, cởi mở, ham học hỏi, biết chấp nhận,
hướng vào kết quả, dứt khoát, có óc phê phán, có kinh nghiệm, biết
chấp nhận khi phạm sai lầm, có sức lôi cuốn thuyết phục và gây được
lòng tin, nhiệt tình, bình tĩnh, biết lắng nghe người khác, thiện tâm
và chu đáo, tự do, niềm nở, mềm dẻo, sẵn sàng giúp người khác phát
triển”
4. Theo ý kiến của R.Herstenberg – người đứng đầu tập đoàn General
Motos người quản lý cần có:
· Yêu cầu thứ nhất là phải có kiến thức sâu rộng. Mỗi nhà quản lý cần
phải biết thực hiện công việc của mình một cách chuyên nghiệp. Phải có
tinh thần cầu thị và ý thức tự hoàn vốn tri thức của mình.
· Yêu cầu thứ hai là phẩm cách và tinh thần trách nhiệm rất cao trong
mọi việc
· Yêu cầu thứ ba là phải biết cảm nhận cái mới và dám mạo hiểm.
· Yêu cầu thứ tư là phải nhạy cảm và năng động.
· Yêu cầu thứ năm là năng lực làm việc cao, thường xuyên muốn trở nên
giỏi giang hơn để hoàn thành công việc được tốt.
5. Theo ý
kiến của Vương Lạc Phu và Tưởng Nguyệt Thần trong cuốn “Khoa học lãnh
đạo hiện đại” NXB Chính trị Quốc gia 2001 có đề cập đến 4 nhóm năng
lực:
· Những phẩm chất về chính trị tư tưởng: Họ coi nhóm này là linh hồn
sống, là hạt nhân của lãnh đạo, thể hiện thế giới quan, nhân sinh quan,
quan điểm về giá trị, tư duy lãnh đạo, nó phản ánh cả trình độ tư duy
chính trị của người lãnh đạo. Hai ông nhấn mạnh: “người lãnh đạo phải
có lập trường chính trị kiên định và phải một lòngmột dạ phục vụ nhân
dân”
· Những phẩm chất về tri thức: Phải có một trình độ nhận thức phù hợp
về mặt lý luận cũng như về văn hoá, tri thức chuyên môn, quản lý và
pháp luật.
· Nhóm các phẩm chất năng lực: Đưa ra 2 loại năng lực cơ bản phải có ở
người lãnh đạo là năng lực sáng tạo (phải có tài quan sát, tài dự kiến,
tài quyết đoán, tài ứng biến). Thứ hai đó là năng lực tổng hợp thể
hiện ở khả năng thu thập và xử lý thông tin, tổng hợp các tri thức,
điều hoà lợi ích.
· Nhóm các phẩm chất về tâm lý: Hai tác giả nhấn đến ba kỹ năng biết
nói, biết viết và biết đi.
6. Các tác giả Việt Nam phát triển từ quan điểm đức – tài cũng nhấn
mạnh đến 3 nhóm đặc điểm đó là:
Nhóm về tư
tưởngchính trị, nhóm các phẩm chất tâm lý đạo đức và nhóm các phẩm
chất năng lực.
Tóm lại để quản lý con người thành công, yếu tố người lãnh đạo là quan
trọng nhất. Từ các tiêu chí về phẩm chất của người cán bộ lãnh đạo,
người quản lý trên. Chúng ta cần có cách nhìn đa chiều nhưng cũng phải
chọn lọc để phù hợp với điều kiện văn hoá từng nước và hoà nhập cùng
xu thế của thế giới. Chúng tôi có nhiều điểm đồng ý với những tổng kết
sau của tác giả Thương Mưu Tử về cách quản người.
“Cách quản
người lấy phục tùng làm gốc. Nếu muốn người khác phục tùng người lãnh
đạo phải có tố chất cao hơn người một cái đầu, phải có biện pháp khiến
người ta tin phục, chế độ quản lý chặt chẽ và nguyên tắc kiên định.
Bản lĩnh nhìn người, nhận biết con người, biết tỏ rõ uy nghiêm ngăn
cấm và lời nói thuyết phục lòng người”
Chúng ta sẽ xem xét từng yếu tố trên:
Tố chất của
người lãnh đạo
· Lấy đức quản người: Người xưa nói “Bản thân phải chính trực, không
cần ra lệnh cấp dưới vẫn nghe theo, bản thân không chính trực, có ra
lệnh cấp dưới cũng không thi hành” Như vậy, người lãnh đạo lợi dụng
chức quyền, vi phạm pháp luật, kỷ luật làm tổn hại đến của công vì lợi
ích cá nhân thì sẽ mất hết uy tín. Ngược lại “Không tư lợi, thân giá
sẽ cao, không kiêu căng, uy càng lớn”
· Lấy học thức quản người: Một người lãnh đạo nếu không có đủ tri thức
và trình độ nghiệp vụ cao, thậm chí vô học mà lại khoa chân múa tay
trứoc mặt cấp dưới có chuyên môn thật khó tưởng tượng liệu có ai phục
anh ta. Ví dụ hiệu trưởng một trường lại không thể lên lớp giảng bài,
viện trưởng bệnh viện lại không biết gì về y thuật, thì làm gì có uy
tín. Ngựoc lại, nếu có đầy đủ chuyên môn cần thiết, không những có thể
vận dụng hiểu biết của mình lãnh đạo tốt công tác của nàgnh mình đồng
thời lại có nhiều tiếng nói chung với cấp dưới. Người lãnh đạo như thế
ai cũng phải kính phục.
· Lấy tài quản người: Một người lãnh đạo tài hoa có thể tạo ra cho
người khác cảm giác tin cậy, an toàn dù trong hoàn cảnh cực kỳ khó
khăn và hết sức nguy hiểm, nhân viên do người đó lãnh đạo vẫn đồng tâm
nhất trí theo người lãnh đạo vượt qua mọi khó khăn. Nếu người lãnh đạo
có cách nói năng sinh động, lưu loát, ngắn gọn, có tính logic, có sức
thuyết phục lan truyền thì đó là một người lãnh đạo có tư tưởng sâu
sắc, hiểu biết rộng, trình độ cao. Còn nói năng thô thiển, khô khan,
sáo rỗng, lề mề, câu sau không ăn nhập với câu trước, không hề có một
sự khiêu gợi, khuyến khích khiến người ta cảm thấy đó là một người
lãnh đạo có trình độ quá tồi.
Biện pháp
của người lãnh đạo
Dựa vào sự phát triển của lịch sử loài người, con người hiện đại chia
biện pháp quản lý ra thành 4 loại:
· Quản lý truyền thống. Cấp dưới bị coi như “người máy”, “bộ phận
máymóc”, quản lý một cách tàn nhẫn, phi nhân tính.
· Quản lý khoa học. Ông chủ coi cấp dưới là “con người kinh tế” chủ
yếu dựa vào hiền tài và định mức để kích thích tính tích cực của con
người.
· Khoa học hành vi. Coi cấp dưới là “con người xã hội, điều động tính
tích cực của con người từ góc độ qua hệ giữa người với người”
· Quản lý hiện đại. Coi cấp dưới là “con người phức tạp”, chú ý nghiên
cứu từ các khía cạnh thoả mãn các yêu cầu cảu cấp dưới, điều động tính
tích cực của họ.
Diễn biến từ “con người máy” đến “con người kinh tế” đến “con người xã
hội” và “con người phức tạp” con người đã làm thay đổi được địa vị bị
nô dịch,bị bóc lột, phát huy được tính chủ động, tích cực, sáng tạo
của họ, mở ra một tương lai rộng lớn.
Chế độ của
người lãnh đạo
Để quản lý người tốt thì các tác giả Trung Quốc cho rằng cần có 4 chế
độ phải duy trì:
· Xây dựng bộ máy quản lý nhân tài và đặt ra các quy tắc, chế độ quản
lý nhân tài.
· Đề ra các chính sách, kế hoạch khai thác và phát triển nhân tài và
giám sát tình hình thực hiện.
· Tổ chức giao lưu và luân chuyển hợp lý nhân tài giữ các vị trí khác
nhau trong ngành, trong các xí nghiệp và trong nội bộ xí nghiệp.
· Xây dựng hồ sơ nhân tài, làm căn cứ để quản lý nhân tài.
Nguyên tắc
của người lãnh đạo
Nguyên tắc có thể lên, có thể xuống. Phải dựa vào tính chất khác nhau,
trình độ khác nhau của nhân tài để quản lý đúng vị trí và nâng cao tài
năng từng cấp.
Nguyên lý điều tiết tầng thứ theo hệ thống. Quản lý phải có tầng thứ.
Tầng thứ ít, biên độ quản lý phải rộng, biên độ quản lý hẹp, tàng thứ
sẽ tăng.
Nguyên tắc bổ sung cho nhau. Xí nghiệp hiện đại cần phải có nhiều nhân
tài.
Nguyên tắc phải theo tình hình động. Tình hình công tác có thay đổi,
nhân tài cũng sẽ thay đổi, nhân tài lưu động sẽ giúp cho việc phát huy
tài năng.
Phương pháp
của người lãnh đạo
· Coi công việc của cấp dưới là việc của mình.
· Phải hoà mình với cấp dưới. Hành vi thường ngày của người lãnh đọ
cấp dưới đã nhìn thấy rõ. Đừng nên cho rằng mình có thể thao túng mọi
người mãi mãi, khi lợi ích thiết thân của nhân viên bị tổn hại, họ
cũng sẽ vùng lên chống lại. Cho nên phải hoà mình với họ, có thể xoá
bỏ được ý nghĩ thù hằn của họ.
· Phải đặt mình vào vị trí của họ. PhảI luôn xuất phát từ quan điểm
của họ để kiểm nghiệm quyết định của mình.
· Phải biết giao quyền, một người lãnh đạo kinh doanh có hiệu suất cao
cần phải hết sức phóng tay giao quyền để dành thời gian vào những việc
người lãnh đạo cần làm.
· Phải nói cho nhân viên biết những khó khăn, và ngăn ngừa những mâu
thuẫn.
· Phải quan tâm đến nhân viên. Có khi chỉ quan tâm đến một việc nhỏ
cũng có thể cải thiện rất lớn đến quan hệ quần chúng của bạn.
· Khai thác phát triển trí tuệ của nhân viên. Tranh thủ ý kiến của
nhân viên dưới quyền, khiến họ phải động não suy nghĩ, khai thác phát
triển trí tuệ của họ.
· Phải biết lắng nghe nhiều loại ý kiến. Khi đưa ra quyết định, phải
biết lựa chọn những phương án có thể lựa chọn. Phương án tốt là phương
án được chọn ra qua việc loại các phương án kém hơn.
· Phải quan tâm đến cách thức bố trí các nhiệm vụ. Người cấp trên
thông minh nhất là người rất ít phải sử dụng đến uy quyền.
· Phải nhìn vào kết quả công việc chứ không phải lượng công việc nhiều
hay ít. Đánh giá một con người phải chú trọng đến những cống hiến của
anh ta.
· Phải có dúng khí nói “không”. Một nhà kinh doanh giỏi phải có dũng
khí nói không và sau chữ không mạnh mẽ đó phải làm cho cấp dưới thấy
sự uy nghiêm của người lãnh đạo.
Bản lĩnh của
người lãnh đạo
· Phải biết nói năng: Đó là năng lực cơ bản nhất của con người dù là
ra lệnh, biện hộ cho bản thân hay trình bày lập trường của mình, nếu
nói năng khéo léo có thể có được hiệu quả lớn gấp bội.
· Quan hệ tốt với mọi người: Đó là một nghệ thuật, trong đời sống hàng
ngày, có nhiều lúc ta phải có quan hệ với người khác, cả khi quan hệ
với cấp dưới khó xử ta vẫn là người chiến thắng.
· Phải có tính hài hước: Tính hài hước là một vũ khí khá quan trọng
trong công tác quản lý vì nó có thể hoá giải mối quan hệ căng thẳng
giữa người với người, có thể làm dịu sự căng thẳng giữa người này với
người kia, đó là một công cụ không đắt mà lại có hiệu quả nhất.
Lời nói của
người lãnh đạo
· Phải học cách nói năng để có tài nói.
· Phải có tính quyền uy, người lãnh đạo cần phải sử dụng ngôi thứ nhất
“tôi” làm cách nói khẳng định.
· Thường dùng cách nói ở thời hiện tại, không được dùng “lần sau anh
nhất định phải giữ bình tĩnh” vì thật sự là nếu bỏ qua một lần thì lần
sau người lãnh đạo cũng sẽ bỏ qua như thế, như vậy sẽ không tạo được
sự uy nghiêm, không bao giờ xoá bỏ được hiện trạng.
· Cách nói nhật định phải rõ ràng, tuyệt đối không được phép do dự trù
trừ. Nhất thiết phải tránh cách nói dùng những từ như “tương đối” hoặc
“nếu có điều kiện” mà phải dùng các cụm từ khẳng định “anh phải hiểu”,
“anh phải thực hiện như thế”
· Mỗi lần chỉ nói một việc. Không được nói kèm việc này vào việc khác,
khi nói lý do, chỉ nói 1 lý do, không nói nhiều nữa.
· Tăng cường ngữ khí trong lời nói sẽ làm lời nói có thêm sức mạnh. Ví
dụ cách nói “mọi người phải tin tưởng” cũng tốt nhưng nếu thêm vào
thành “tôi tin mọi người đều tin tưởng” thì hiệu quả còn tốt hơn nữa.
· Nghĩ kỹ rồi hãy nói. Tuyệt đối kiêng kị nói ra một việc chưa được
suy nghĩ kỹ, vì lỡ một, hai lần nhất định sẽ làm cấp dưới mất tin
tưởng. Cho nên khi đề ra mục tiêu phải thực tế và có khả năng thực
hiện được. Các cụm từ như “vĩnh viễn”, “tuyệt đối”, “hoàn mỹ”, “hoàn
toàn” nên tránh dùng.
· Nên vận dụng những câu danh ngôn. Những câu danh ngôn lập chí cần
được treo ở chỗ dễ thấy để có thể vận dụng được thường xuyên nhờ đó mà
nâng cao uy tín.
Tổng kết
Phải nhấn mạnh lại xã hội càng phát triển thì vai trò của nhân tố con
người và quản lý, tổ chức con người lại càng quan trọng. Quản lý con
người hiện nay vừa được xem như một ngành khoa học vừa được xem như
một nghệ thuật vì quản lý con người là quản lý các cấu trúc phức tạp
với những yếu tố bản sắc, những nhân cách riêng của từng cá nhân không
ai giống ai. Bởi vậy, để quản lý con người cần những người có tài và
phải được đào tạo một cách bài bản. Những nhà quản lý này cũng sẽ phải
tự ý thức việc học liên tục, học suốt đời không ngừng hoàn thiện năng
lực quản lý của mình vì xu hướng của xã hội và những con người của xã
hội hiện nay biến đổi ngày càng nhanh. Nhà quản lý nếu không “học liên
tục” sẽ bị tụt hậu không đủ khả năng quản lý công việc và những người
dưới quyền có hiệu quả. |