Quản trị nhân sự theo thị trường
Dù các doanh nghiệp có đặt trọng tâm vào việc
t́m, giữ người và thực hiện nhiều biện pháp để giữ người nhưng rơ ràng khó tránh
được việc những nhân viên giỏi có thể bị chiêu dụ hay tự tách công ty ra đi vào
bất cứ lúc nào.
Nếu không tránh được thực tế đó th́ liệu có cách nào sống chung với nó?
Chiến lược nhân sự theo định hướng thị trường
Trước hết, cần chấp nhận thực tế là không phải công ty ḿnh mà chính thị trường
mới có khả năng quyết định sự chuyển dịch của nguồn nhân lực. Bản thân doanh
nghiệp có thể đầu tư và cố gắng để trả lương cao, tạo những cơ hội và điều kiện
làm việc lư tưởng cho nhân viên. Nhưng như vậy cũng mới giải quyết được một phần
của vấn đề là giảm bớt những lực đẩy trong nội bộ khiến nhân viên ra đi.
C̣n lực hút từ thị trường bên ngoài th́ vẫn luôn tồn tại và nằm ngoài khả năng
kiểm soát của doanh nghiệp. Sự chuyển dịch tự do của nguồn nhân lực trên thị
trường là không thể ngăn cản. Nếu không thể đóng cửa về mặt nhân sự th́ doanh
nghiệp cần mở cửa và có những chiến lược nhân sự theo định hướng thị trường.
Dựa trên một thực tế hơi khó nghe là gần như không thể có sự trung thành lâu dài
của nhân viên, chiến lược nhân sự theo định hướng thị trường sẽ từ bỏ mục tiêu
cổ điển của quản trị nhân sự là giảm thiểu số lượng nhân viên nghỉ việc để đi
theo mục tiêu mới là chi phối được việc ai sẽ nghỉ và bao giờ nghỉ.
Cách làm của các câu lạc bộ bóng đá quốc tế là ví dụ tiêu biểu. Đối đầu với thực
tế là các cầu thủ giỏi của ḿnh luôn bị “ḍm ngó”, các đội bóng luôn t́m cách
nắm vững t́nh h́nh ai sẽ ra đi và bao giờ đi, từ đó phân tích nguyên nhân và hậu
quả của từng vụ ra đi, xem ai là người có thể thay thế, ai vẫn đang rất cần.
Không cần và cũng không thể giữ hết các cầu thủ, nhưng đội bóng có thể chủ động
tập trung t́m cách giữ chân một vài người quan trọng rồi có kế hoạch đào tạo hay
t́m người thay thế.
Một huấn luyện viên giỏi có thể chủ động chuyển nhượng một cầu thủ vẫn đang ở
đỉnh cao nhưng không c̣n tha thiết với đội nhà và có thể tác động xấu đến tinh
thần của tập thể, thay vào đó là tuyển về nhiều cầu thủ trẻ hơn, ít đ̣i hỏi
nhưng lại cống hiến nhiều hơn.
Một số biện pháp theo định hướng thị trường
Định hướng thị trường cũng bao hàm một số biện pháp hữu hiệu để quản lư nguồn
nhân lực thiết yếu:
- Hợp đồng cam kết. Không chỉ ràng buộc về mặt pháp lư, hợp đồng làm việc có
thời hạn cũng giúp nhân viên thấy rơ việc phải làm và cái đích phải đạt trong
khoảng thời gian quy định, từ đó kích thích sự cống hiến cao độ của nhân viên để
đạt mục tiêu hợp đồng. Trong thị trường lao động chuyên nghiệp th́ nhân viên có
thể cống hiến hết ḿnh mà không cần có sự trung thành.
- Giao cho nhà thầu. Một khi nguồn nhân lực cao cấp trở nên quư hiếm trên thị
trường, th́ việc t́m và giữ nhân viên sẽ rất khó khăn và tốn kém. Nhiều công ty
đă chọn cách sử dụng công ty bên ngoài để khỏi phải lo đến việc t́m và giữ nguồn
nhân lực quư hiếm. Ví dụ, Công ty Tài chính J.P. Morgan đă khôn ngoan kết hợp
với một số công ty tin học để lập ra Công ty Pinnacle Alliance chuyên thầu các
nghiệp vụ vi tính trên toàn cầu cho ḿnh.
- Tăng cường đào tạo và chuẩn hóa công việc. Có thể chuẩn hóa công việc bằng
cách chia thành từng phần việc nhỏ, có mô tả rơ ràng và yêu cầu tất cả các giao
dịch đều phải thực hiện bằng văn bản hay e-mail. Các chương tŕnh vi tính, ví dụ
về kế toán, quản lư khách hàng, nguyên liệu… cũng là những công cụ rất hữu hiệu
để chuẩn hóa công việc. Một nhân viên giỏi ra đi, nhưng nếu có bảng mô tả công
việc rơ ràng, có văn bản lưu lại hay có các phần mềm hỗ trợ th́ sẽ không khó để
t́m người thay thế.
- Hợp tác với đối thủ và đối tác. Cạnh tranh không phải lúc nào cũng mang nghĩa
đối đầu. Sự hợp tác, ngay cả với đối thủ, cũng có khi là biện pháp hữu hiệu để
t́m và giữ nguồn nhân lực đang khan hiếm. Ví dụ các công ty dệt may có thể cạnh
tranh với nhau để giành hợp đồng và quota. Nhưng các công ty cũng có thể giúp
nhau và giúp người lao động bằng cách công ty ít đơn hàng cho công ty đang có
nhiều hợp đồng mượn tạm nguồn nhân lực của ḿnh.
Chẳng hạn, Công ty Viễn thông AT&T ở Mỹ đă kết hợp với khoảng 30 công ty khác để
lập ra “Liên minh nhân tài” (Talent Alliance) như một ngân hàng về nguồn nhân
lực để chia sẻ giữa các thành viên. Sự hợp tác cũng có thể là giữa những doanh
nghiệp không cạnh tranh nhau hoặc giữa doanh nghiệp với các tổ chức, chính quyền.
Ví dụ, giám đốc nhân sự của một công ty may mặc lớn trong nước đă từng có “sáng
kiến” đi t́m nguồn nhân lực ở… chính quyền. Ông ta đến ủy ban nhân dân của một
huyện ở đồng bằng sông Cửu Long và đề nghị sẽ hỗ trợ địa phương tạo việc làm cho
200 lao động nữ, nhưng kèm điều kiện địa phương bảo đảm nhân viên phải làm việc
ít nhất ba tháng ở công ty. Lănh đạo huyện nhiệt t́nh đứng ra tuyển người giùm
công ty. Một mô h́nh hợp tác rất ư nghĩa!